Ruộng bị truất hữu sẽ được đem bán lại cho những người thiếu ruộng, mỗi hộ không quá 5 ha, người mua sẽ trả tiền trong thời gian 6 năm. Trong thời gian đó ruộng đất vẫn thuộc quyền sở hữu của chính quyền. Trong 10 năm kế tiếp, người được phát ruộng không được cho mướn hay đem bán lại. Địa chủ sẽ được bồi thường 10% tiền mặt, số còn lại được trả bằng
trái phiếu trong 12 năm, mỗi năm lời 5%.
Thực hiện chính sách cải cách điền địa nêu trên; Miền Nam Việt Nam đã thực hiện chính sách tư hữu hóa ruộng đất cho các
tá điền qua công cuộc Cải Cách Điền Địa do Tổng thống Ngô Đình Diệm thực hiện trong những năm 1955-1963.
Đến năm 1958, Ngô Đình Diệm đã khôi phục được kiểu sở hữu đất tại đồng bằng Nam Bộ về lại như thời trước chiến tranh khi 2% chủ đất sở hữu 45% đất đai và khoảng một nửa số người cày không có ruộng. Đến ngày 30 tháng 6 năm 1959, chủ yếu ở đồng bằng sông Cửu Long số khế ước tá điền lập được đã lên tới 774.286 ha, liên quan tới khoảng ¾ số tá điền.
Diện tích truất hữu (2035 chủ điền) = 430.319 ha (chiếm 94%)
Theo số liệu trên, tính chung cả miền Nam, chính quyền đã thu hồi 430.319 ha và bán lại cho 123.193 nông dân. So với 1 triệu hộ tá điền ở đồng bằng sông Cửu Long thì rõ ràng dụ 57 về cơ bản không ảnh hưởng bao nhiêu.
2.2.2 Luật người cày có ruộng.
Ngày
25 tháng 8 năm
1969, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đưa ra dự luật để quốc hội thảo luận, trong đó việc rút bớt ruộng đất để lại cho địa chủ xuống còn 15
ha ở
Nam phần, 5 ha ở
Trung phần và cấp không 1,5 triệu ha ruộng lúa cho hơn 80 vạn nông dân.
Từ tháng 8 năm 1969 đến tháng 3 năm 1970, sau một thời gian tranh luận khá gay go Luật người cày có ruộng được Thượng viện thông qua ngày
6 tháng 3 năm 1970 và Hạ viện chung quyết ngày
16 tháng 3 năm 1970. Ngày
26 tháng 3 năm 1970, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã ký ban hành Luật "Người Cày Có Ruộng".
Luật quy định ruộng đất không
trực canh (không do địa chủ canh tác) đương nhiên bị truất hữu và phải được bồi thường thỏa đáng theo thời giá. Chính phủ sẽ phát hành
công khố phiếu để chi trả những khoản này. Chủ đất được bồi thường 20% bằng hiện kim và 80% bằng công khố phiếu trả 10% lãi trong tám năm.Ruộng đất truất hữu được ưu tiên cấp phát miễn phí cho tá điền (3 ha ở
Nam phần và 1 ha ở
Cao nguyên, duyên hải Trung phần). Điền chủ trực canh chỉ được giữ tối đa
15 ha ở
Nam Phần hay
5 ha ở
Trung Phần.
Tuy nhiên, Luật "Người Cày Có Ruộng" không áp dụng đối với ruộng đất của các tổ chức tôn giáo và ruộng đất hương hỏa gia đình của người dân. Mục tiêu của việc cải cách này là cấp miễn phí 1,5 triệu hecta ruộng lúa cho 80 vạn hộ nông dân,
đồng thời cấp giấy chứng nhận sở hữu ruộng đất cho nông dân. Người nhận đất theo quy định chương trình Người cày có ruộng thì không được sang nhượng hay bán lại thửa đất đó trong vòng 15 năm.
Ngoài ra chính sách ruộng đất còn có ba điểm mới đem vào thực hành: (1). Địa chủ không có quyền bắt tá điền nộp địa tô thuộc những năm trước. (2). Nông dân lãnh ruộng do Việt Cộng cấp cũng được miễn thuế trong một thời gian. (3). Nông dân lãnh ruộng do Việt Cộng cấp sẽ được nhận
bằng khoán để chính thức sở hữu số ruộng đó.
Tính đến năm
1973 thì hơn một triệu ha ruộng đã được chuyển sang quyền sở hữu của hơn 850.000 tá điền.
Tổng thống Thiệu cho lập ra nhiều Ủy ban cải cách điền địa từ huyện đến xã. Các ủy ban này có nhiệm vụ kê khai ruộng đất canh tác của nông dân, ruộng đất thuộc sở hữu của địa chủ. Căn cứ vào số liệu do các Ủy ban Cải cách Điền địa thu thập được, Việt Nam Cộng hòa
cấp chứng khoán để xác nhận quyền sở hữu ruộng đất của nông dân. Những ai không kê khai ruộng đất hoặc không nhận chứng khoán thì ruộng đất sẽ bị tịch thu và xem như có hành động ngăn cản việc thi hành người cày có ruộng.
Kết quả, Ở miền Nam, trong đợt 1, đất đai của địa chủ được chính phủ thu mua giá cả sòng phẳng rồi bán trả góp 12 năm cho dân nghèo. Trong đợt 2, đại địa chủ chỉ được giữ tối đa 15 ha nếu trực canh, sau năm 1973 đã chấm dứt nạn tá canh làm thuê ruộng của chủ điền vì nông dân đã được cấp, bán trả góp. Ở miền Nam Việt Nam, phương thức sản xuất nông nghiệp kiểu
phong kiến đã bị xoá sạch.
Ba năm sau khi triển khai chương trình này, tổng cộng có 75 vạn hộ gia đình, gồm khoảng 5 triệu người, đã được cấp đất. Còn lại khoảng 20 phần trăm là phú nông và tư sản trung nông giàu sở hữu chừng 10 phần trăm ruộng đất canh tác.
Tuy nhiên, Luật "Người Cày Có Ruộng" không hề đụng chạm đến ruộng đất của tôn giáo nên ngay sau năm 1975, các tôn giáo còn sở hữu rất nhiều ruộng đất.
Phật giáo,
Hòa Hảo và
Cao Đài còn chiếm không đáng kể, nhưng đáng chú ý nhất là sự sở hữu lớn của các nhà thờ
Thiên chúa giáo.
Người được giao ruộng đất được Ty Điền địa cấp “
Bằng khoán điền thổ”, dưới đây là một ví dụ về “
Bằng khoán điền thổ”.